CUỘC THI DANH XƯNG THANH HÓA

Đăng lúc: 14:48:56 13/03/2019 (GMT+7)

 

Phần I: 16 câu hỏi trắc nghiệm

Câu 1Thanh Hóa là nơi đầu tiên phát hiện ra di vật (trống đồng) của nền văn hóa Đông Sơn vào thời gian nào?

a. Năm 1922.

b. Năm 1923.

c. Năm 1924.

d. Năm 1925.

Câu 2Tỉnh lỵ Thanh Hóa thời nhà Lý được đặt ở địa phương nào dưới đây?

a. Tư Phố (hiện nay thuộc xã Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa).

b. Duy Tinh (hiện nay thuộc xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc).

c. Vạn Lại (hiện nay thuộc xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân).

d. Hạc Thành (hiện nay thuộc thành phố Thanh Hóa).

Câu 3Vị tướng nào là người Thanh Hóa có công dẹp loạn "Tam vương” thời Lý?

a. Đào Cam Mộc

b. Lê Phụng Hiểu

c. Lý Thường Kiệt

d. Tô Hiến Thành

Câu 4Đền Đồng Cổ (thờ thần Trống Đồng) hiện nay thuộc địa phương nào của tỉnh Thanh Hóa?

a. Làng Trịnh Lộc, xã Yên Phú, huyện Yên Định.

b. Làng Quan Yên, xã Định Tiến, huyện Yên Định.

c. Làng Đan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định.

d. Làng Đồng Phang, xã Định Hòa, huyện Yên Định.

Câu 5Bộ sử nào dưới đây ghi chép về việc đổi tên “Trại Ái Châu” thành “Phủ Thanh Hóa”?

a. Đại Việt sử ký.

b. Đại Việt sử ký toàn thư.

c. Đại Việt sử ký tiền biên.

d. Khâm định Việt sử thông giám cương mục.

Câu 6: Năm 1029, Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương được đặt tên dưới triều vua nào của nhà Lý?

a. Lý Thái Tổ

b. Lý Thái Tông

c. Lý Thánh Tông

d. Lý Nhân Tông

Câu 7Trong triều đại nhà Lý, Thái úy Lý Thường Kiệt được cử làm Tổng trấn Thanh Hóa vào thời gian nào?

a. Từ năm 1082 đến năm 1101.

b. Từ năm 1069 đến năm 1072.

c. Từ năm 1072 đến năm 1082.

d. Từ năm 1102 đến năm 1109.

Câu 8Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) là bộ luật chính thức của Nhà nước Đại Việt thời Hậu Lê được ban hành dưới triều vua nào?

a. Lê Lợi (Lê Thái Tổ).

b. Lê Thái Tông.

c. Lê Nhân Tông.

d. Lê Thánh Tông.

Câu 9: Trong lịch sử Việt Nam, những vị vua, chúa, danh nhân, công thần nào dưới đây là người Thanh Hóa?

a. Triệu Thị Trinh, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lê Lợi.

b. Mai Thúc Loan, Lê Hoàn, Hồ Quý Ly, Đào Cam Mộc, Nguyễn Kim.

c. Lê Hoàn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng.

d. Triệu Thị Trinh, Đào Duy Từ, Lê Hoàn, Hồ Quý Ly, Lê Lợi.

Câu 10: Năm 1841, tên gọi tỉnh Thanh Hóa được đặt dưới triều vua nào của nhà Nguyễn?

a. Gia Long

b. Minh Mệnh

c. Thiệu Trị

d. Tự Đức

Câu 11Thanh Hóa là nơi phát tích của các vương triều và dòng chúa nào trong lịch sử Việt Nam?

a. Tiền Lê, Lý, Hồ, Hậu Lê, Mạc; chúa Trịnh, chúa Nguyễn.

b. Hồ, Hậu Lê, Mạc, Nguyễn; chúa Nguyễn.

c. Tiền Lê, Lý, Mạc, Nguyễn; chúa Trịnh, chúa Nguyễn.

d. Tiền Lê, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn; chúa Trịnh, chúa Nguyễn.

Câu 12Trong phong trào Cần Vương chống Pháp, những lãnh tụ nào dưới đây là người Thanh Hóa?

a. Trần Xuân Soạn, Phạm Bành, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước.

b. Trần Xuân Soạn, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân.

c. Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước.

d. Phạm Bành, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước, Cao Thắng.

Câu 13Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại địa điểm nào?

a. Làng Hàm Hạ, xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn.

b. Làng Phúc Lộc, xã Thiệu Tiến, huyện Thiệu Hóa.

c. Làng Yên Trường, xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân.

d. Làng Cự Đà, xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hóa.

Câu 14: Trong lần về thăm Thanh Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi: “…Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó…”, câu nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói trong thời gian và địa điểm nào?

a. Năm 1947 tại Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

b. Năm 1957 tại trụ sở Tỉnh ủy, Thanh Hóa.

c. Năm 1960 tại Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

d. Năm 1961 tại sân vận động tỉnh Thanh Hóa.

Câu 15Thành Nhà Hồ được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới vào ngày tháng năm nào?

a. Ngày 27/6/2010.

b. Ngày 27/6/2011.

c. Ngày 16/6/2012.

d. Ngày 16/6/2013.

Câu 16Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành bao nhiêu kỳ Đại hội?

a. 16 kỳ đại hội.

b. 17 kỳ đại hội.

c. 18 kỳ đại hội.

d. 19 kỳ đại hội.

Phần II. Câu hỏi tự luận (bài viết không quá 7.000 từ)

Bạn hãy trình bày những hiểu biết của mình về sự ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương vào năm 1029 ? Theo bạn trong thời gian tới tỉnh Thanh Hóa cần làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống lịch sử hào hùng trong việc xây dựng Thanh Hóa trở thành "Tỉnh kiểu mẫu" như Bác Hồ hằng mong muốn.

* Khái quát về tỉnh Thanh Hóa

Thanh Hóa, hay còn được gọi là xứ Thanh, là tỉnh cực Bắc miền Trung của Việt Nam và là một tỉnh lớn về cả diện tích và dân số, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính tỉnh trực thuộc nhà nước, cũng là một trong những địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt cổ.

Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm 1831 (năm Minh Mệnh 10) thì tỉnh Thanh Hóa thuộc về sao Dực và sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, mức cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía tây 1 độ 40 phân.[1]

Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn nước Lào với đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hóa mở ra phần giữa của Vịnh Bắc Bộ thuộc Biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.106 km², đứng thứ 6 trong cả nước, chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².

Cách đây khoảng 6.000 năm đã có người sinh sống tại Thanh Hóa. Các di chỉ khảo cổ học cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa Đa Bút. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hóa Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Và sau đó là nền văn minh Văn Lan cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã tỏa sáng rực rỡ trong đất nước của các vua Hùng.

Nếu chỉ tính trong khoảng 4 thế kỷ rưỡi từ năm 1400 đến 1858 thì có thể xem là giai đoạn lịch sử then chốt mà "nhân tố quyền lực xứ Thanh" có ảnh hưởng sâu sắc tới dòng chảy của lịch sử Việt Nam từ thời trung đại qua thời cận đại cho tới thời hiện đại. Và nếu chỉ xét riêng về mặt chính trị, thì đây là thời kỳ mà "nhân tố quyền lực xứ Thanh" có tác động mang tính thống trị đến lịch sử Việt Nam (xét cả ở mặt tích cực lẫn tiêu cực) và có thể nói là lấn át các tỉnh thành còn lại trên cả dải dất hình chữ S (xét về mức độ ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài của các thời kỳ cai trị). Bởi vì từ thời Hồ cho tới khi thực dân Pháp hoàn toàn khống chế họ Nguyễn từ quãng giữa thế kỷ XIX trở đi, ngoại trừ họ Mạc có gốc xứ Đông và họ Nguyễn Tây Sơn có gốc xứ Nghệ (rồi di cư vào đất Bình Định thuộc xứ Đàng Trong) thì tất cả các dòng họ của người Việt thay nhau nắm quyền cai trị trên dải đất hình chữ S trong giai đoạn này đều phát tích từ xứ Thanh: từ họ Hồ (với các đời vua Nhà Hồ), họ Lê (với các đời vua Nhà Lê sơ và vua Nhà Lê Trung Hưng), họ Trịnh (với các đời Chúa Trịnh), và họ Nguyễn (với các đời Chúa Nguyễn và vua Nhà Nguyễn). Xét cả ở mặt tích cực lẫn tiêu cực, thì các dòng họ quyền lực gốc xứ Thanh nêu trên đã góp phần to lớn định hình lịch sử trung đại-cận đại-hiện đại của Việt Nam.

Thanh Hóa là tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam trên nhiều phương diện. Về hành chính, Thanh Hóa là tỉnh cực bắc Trung Bộ, tiếp giáp với Tây Bắc Bộ và đồng bằng Bắc Bộ. Về địa chất, miền núi Thanh Hóa là sự nối dài của Tây Bắc Bộ trong khi đồng bằng Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Trung Bộ, ngoài ra một phần nhỏ (phía bắc huyện Nga Sơn) thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Về khí hậu, Thanh Hóa vừa có kiểu khí hậu của miền Bắc lại vừa mang những hình thái khí hậu của miền Trung. Về ngôn ngữ, phần lớn người dân nói phương ngữ Thanh Hóa với vốn từ vựng khá giống từ vựng của phương ngữ Nghệ Tĩnh song âm vực lại khá gần với phương ngữ Bắc Bộ.

Thanh Hóa bao gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 24 huyện, với diện tích 11.133,4 km² và số dân 3.712.600 người với 7 dân tộc Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Khơ-mú, trong đó có khoảng 586200 người sống ở thành thị.  Năm 2005, Thanh Hóa có 2,16 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh, lao động đã qua đào tạo chiếm 27%, trong đó lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 5,4%.

Năm 2017, Thanh Hóa là tỉnh đầu tiên của Bắc Trung Bộ có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (TP Thanh Hóa, TP Sầm Sơn).

* Về vị trí địa lý

Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn LaHòa Bình và Ninh Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn của nước Lào với đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hóa mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc Biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.106 km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².

* Địa hình, địa mạo

Địa hình Thanh Hóa nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Ở phía Tây Bắc, những đồi núi cao trên 1.000 m đến 1.500 m thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía Đông Nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh, tạo tiềm năng lớn về kinh tế lâm nghiệp, dồi dào lâm sản, tài nguyên phong phú. Dựa vào địa hình có thể chia Thanh Hóa ra làm các vùng miền.

Miền núi, trung du: Miền núi và đồi trung du chiếm phần lớn diện tích của Thanh Hóa. Riêng miền đồi trung du chiếm một diện tích hẹp và bị xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở Bắc Bộ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu đã không tách miền đồi trung du của Thanh Hóa thành một bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là một phần không tách rời của miền núi nói chung.

Miền đồi núi chiếm 2/3 diện tích Thanh Hóa, nó được chia làm 3 bộ phận khác nhau bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Cẩm Thủy, Thạch Thành và Ngọc Lặc. Vùng đồi núi phía tây có khí hậu mát, lượng mưa lớn nên có nguồn lâm sản dồi dào, lại có tiềm năng thủy điện lớn, trong đó sông Chu và các phụ lưu có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng các nhà máy thủy điện. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp, đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây đặc sản và có Vườn quốc gia Bến En (thuộc địa bàn huyện Như Thanh và huyện Như Xuân), có rừng phát triển tốt, với nhiều gỗ quý, thú quý.

Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền Trung và thứ ba của cả nước. Đồng bằng Thanh Hóa có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Điểm đồng bằng thấp nhất so với mực nước biển là 1 m.

Vùng ven biển: Các huyện từ Nga SơnHậu LộcHoằng HóaSầm SơnQuảng Xương đến Tĩnh Gia, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Hoạtsông Mãsông Yên và sông Bạng. Bờ biển dài, tương đối bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn, có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thủy sản, phân bố các khu dịch vụ, khu công nghiệp, phát triển kinh tế biển (ở Nga Sơn, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn).

* Tài nguyên thiên nhiên

Thanh Hóa có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khoáng sản khác nhau: đá granit và marble, đá vôi làm xi măng, sét làm xi măng, crôm, quặng sắt, secpentin, đôlômit, ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác. Tổng trữ lượng nước ngọt bề mặt của Thanh Hóa khoảng 19,52 tỷ m³ hàng năm.

* Tên gọi Miền đất xứ Thanh trong tiến trình lịch sử

Thời Bắc thuộc

Thời Nhà Hán chính quyền đô hộ Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân. Sang đến thời Tam Quốc, nhà Đông Ngô trực tiếp cai trị. Sau khi tách quận Cửu Chân thành hai quận Cửu Chân và Cửu Đức thì thuộc quận Cửu Chân mới gồm đất Thanh Hóa ngày nay và một phần phía nam Ninh Bình. Cửu Chân được chia làm 7 huyện gồm: Tư Phố, Di Phong, Cư Phong, Trạn Ngô, Kiến Sơ, Phù Lạc, Thường Lạc, Tùng Nguyên. Sang đến thời nhà Lương, Lương Võ đế đổi Cửu Chân làm Ái Châu. Đến thời Nhà Tùy gọi là Cửu Chân quận.

Thời kỳ tự chủ

Ở thời kỳ tự chủ thì Thanh Hóa được đổi tên nhiều lần nhưng Thanh Hóa vẫn là tỉnh có số lần sát nhập và chia tách ít nhất cả nước.

Ở thời Nhà Đinh và Tiền Lê Thanh Hóa gọi là đạo Ái Châu. Ở thời Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu, về sau vào năm Thuận Thiên thứ nhất 1010 thì gọi là Phủ Thanh Hóa).

Năm 1242, vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ đời Lý thành 12 lộ, trong đó có Thanh Hóa phủ lộ. Năm Quang Thái thứ 10 (Trần Thuận Tông - năm 1397) đổi làm trấn Thanh Ðô. Trấn Thanh Ðô lúc này gồm 7 huyện và 3 châu (mỗi châu có 4 huyện). Trong đó, 7 huyện là: Cổ Ðằng, Cổ Hoằng, Ðông Sơn, Cổ Lôi, Vĩnh Ninh, Yên Ðịnh, Lương Giang. 3 châu bao gồm: châu Thanh Hóa gồm huyện Nga Lạc, huyện Tế Giang, huyện Yên Lạc, huyện Lỗi Giang; châu Ái gồm huyện Hà Trung, huyện Thống Bình, huyện Tống Giang, huyện Chi Nga; châu Cửu Chân gồm huyện Cổ Chiến, huyện Kết Thuế, huyện Duyên Giác, huyện Nông Cống.

Năm 1397Trần Thuận Tông đổi làm trấn Thanh Đô, gồm 3 châu và 7 huyện: châu Thanh Hóa (gồm Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang); châu Ái (gồm: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga); châu Cửu Chân (gồm: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông Cống); huyện Cổ Đằng; huyện Cổ Hoằng; huyện Đông Sơn; huyện Vĩnh Ninh; huyện Yên Định; huyện Lương Giang; huyện Cổ Lôi.

Năm 1403Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương. Sách Ðại Nam nhất thống chí ghi:

Phủ này (tức phủ Thiên Xương) cùng Cửu Chân và Ái Châu làm "tam phủ" gọi là Tây Ðô". Thời thuộc Minh, trấn Thanh Ðô đổi thành phủ Thanh Hóa (năm 1407 - theo Ðào Duy Anh)' và Thời thuộc Minh lại làm phủ Thanh Hóa, lãnh 4 châu là Cửu Chân, Ái Châu, Thanh Hóa, Quỳ Châu và 11 huyện. Trong đó, 11 huyện là Yên Ðịnh, Nông Cống, Vĩnh Ninh, Tống Giang, Cổ Ðằng, Nga Lạc, Lương Giang, Lỗi Giang, Ðông Sơn, Yên Lạc, Cổ Lôi.

Sau khi Nhà Hồ thất thủ, Nhà Minh cai trị Đại Việt, lại đổi lại làm phủ Thanh Hóa như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi Dương, Thụy Nguyên. Về địa giới vẫn không đổi.

Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhà hậu Lê cầm quyền. Năm Thuận Thiên thứ nhất (năm 1428), Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo, Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo, đến năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466) đặt tên là Thừa Tuyên Thanh Hóa, năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1469) lại đổi thành Thừa Tuyên Thanh Hoa, tên Thanh Hoa có từ đây. Thanh Hoa Thừa Tuyên theo "Thiên Nam dư hạ tập" lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4 châu.

Thời Nhà Lê, Thanh Hóa là thừa tuyên Thanh Hóa (Thanh Hoa), gồm phần đất tỉnh Thanh Hóa ngày nay và tỉnh Ninh Bình (thời kỳ đó là phủ Trường Yên, trực thuộc) và tỉnh Hủa Phăn (Sầm Nưa) của Lào (thời kỳ đó gọi là châu Sầm). Xứ Thanh Hoa thời Nhà Lê với 6 phủ:

- Phủ Thiệu Thiên (Thiệu Hóa), nằm ở phía tây tây bắc xứ Thanh, có 8 huyện: Thụy Nguyên, Vĩnh Phúc (Vĩnh Lộc), Đông Sơn, Lôi Dương, Yên Định, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Quảng Bình.

- Phủ Hà Trung phủ có 4 huyện: Hoằng Hóa, Thuần Lộc (Hậu Lộc), Nga Sơn, Tống Sơn.         

- Phủ Tĩnh Gia có 3 huyện: Nông Cống, Ngọc Sơn, Quảng Xương.

- Phủ Thanh Đô có 4 châu và 1 huyện là huyện Thọ Xuân và các châu: Khai Na (Quan Da), Tàm (châu), Lương Chính (Lang Chánh), Sầm (châu) (nay thuộc Lào).

- Phủ Trường Yên, nay là một phần tỉnh Ninh Bình, có 3 huyện: Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (Yên Khánh).

- Phủ Thiên Quan (Nho Quan), ở phía Tây Bắc xứ Thanh, giáp với trấn Sơn Tây và trấn Sơn Nam, nay thuộc các tỉnh Ninh Bìnhvà Hòa Bình, có 3 huyện: Phụng Hóa, Yên Hóa, Lạc Thổ (Lạc Sơn).

Sau khi Nhà Nguyễn lên nắm quyền, vào năm Gia Long thứ nhất (1802), đổi gọi là trấn Thanh Hóa. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa). Đến năm Thiệu Trị thứ ba (1843), lại đổi thành tỉnh Thanh Hóa. Tên gọi Thanh Hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay.

Thời kỳ hiện đại (sau năm 1945 đến nay)

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các cấp hành chính là châu, phủ, quận được bãi bỏ. Tỉnh Thanh Hóa lúc này có 21 đơn vị hành chính gồm thị xã Thanh Hóa và 20 huyện: Bá ThướcCẩm ThủyĐông SơnHà TrungHậu LộcHoằng HóaLang ChánhNga SơnNgọc LặcNhư XuânNông CốngQuan HóaQuảng XươngThạch ThànhThiệu HóaThọ XuânThường XuânTĩnh GiaVĩnh LộcYên Định.

Ngày 16 tháng 12 năm 1964, huyện Triệu Sơn được thành lập trên cơ sở tách 13 xã thuộc huyện Thọ Xuân và 20 xã thuộc huyện Nông Cống.

Ngày 5 tháng 7 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Hà Trung và Nga Sơn thành huyện Trung Sơn; hợp nhất 2 huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành thành huyện Vĩnh Thạch; hợp nhất 2 huyện Lang Chánh và Ngọc Lặc thành huyện Lương Ngọc; hợp nhất huyện Yên Định và 15 xã của huyện Thiệu Hóa ở tả ngạn sông Chu thành huyện Thiệu Yên; hợp nhất huyện Đông Sơn và 16 xã còn lại của huyện Thiệu Hóa ở hữu ngạn sông Chu thành huyện Đông Thiệu.

Ngày 18 tháng 12 năm 1981, thành lập 2 thị xã Bỉm Sơn (tách ra từ huyện Trung Sơn) và Sầm Sơn (tách ra từ huyện Quảng Xương).

Ngày 30 tháng 8 năm 1982, chia các huyện Lương NgọcTrung SơnVĩnh Thạch thành các huyện như cũ; đổi tên huyện Đông Thiệu thành huyện Đông Sơn nhưng vẫn giữ nguyên địa giới như cũ.

Ngày 1 tháng 5 năm 1994, chuyển thị xã Thanh Hóa thành thành phố Thanh Hóa.

Ngày 18 tháng 11 năm 1996, chia huyện Quan Hóa thành 3 huyện Mường LátQuan Hóa và Quan Sơn và chia huyện Như Xuân thành 2 huyện Như Thanh và Như Xuân; tái lập huyện Thiệu Hóa trên cơ sở tách 16 xã thuộc huyện Đông Sơn ở hữu ngạn sông Chu và 15 xã thuộc huyện Thiệu Yên ở tả ngạn sông Chu; đổi tên huyện Thiệu Yên thành huyện Yên Định.

Ngày 19 tháng 4 năm 2017, chuyển thị xã Sầm Sơn thành thành phố Sầm Sơn.

* Danh xưng Thanh Hóa xuất hiện với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc trung ương (Qua các cứ liệu lịch sử)

Năm 1029 dấu mốc quan trọng xuất hiện danh xưng Thanh Hóa

Thanh Hoá là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, ít chia tách, có bề dày lịch sử, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là nơi chứa đựng nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần rất độc đáo.

Trong diễn trình phát triển của lịch sử Việt Nam, Thanh Hóa có vị trí rất đặc thù. Đây là nơi giao thoa, hội tụ giữa các trung tâm văn hóa lớn của dân tộc Việt, song vẫn mang sắc thái văn hóa riêng. Xứ Thanh - quê hương của nhiều bậc anh hùng, hào kiệt, chí sĩ, văn nhân nổi tiếng như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê Văn Hưu, Đào Duy Từ... làm rạng rỡ cho quê hương, xứ sở. Xứ Thanh là vùng đất khởi nghiệp của nhiều triều đại quân chủ: triều Tiền Lê, triều Hồ, triều Lê Sơ, Lê Trung Hưng, triều Nguyễn. Thanh Hóa cũng là đất “thang mộc”, nơi phát tích, sản sinh ra nhiều bậc vua chúa nổi bật, làm rạng danh sơn hà xã tắc. Trên địa bàn Thanh Hóa từng diễn ra và ghi dấu nhiều sự kiện trọng đại của đất nước. Trải qua quá trình lịch sử, các thế hệ người dân Thanh Hóa luôn dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, lập nên nhiều chiến công hiển hách, tô thắm thêm truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc.

Là mảnh đất có bề dày truyền thống, lịch sử, Thanh Hóa được ghi chép lại trong nhiều bộ chính sử, địa chí, văn bia, thư tịch và các công trình nghiên cứu từ thời cổ, trung đại đến thời cận hiện đại. Nhiều vấn đề về lịch sử Thanh Hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc đã được nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và sáng tỏ. Tuy nhiên, thời điểm ra đời của địa danh Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương có rất ít tài liệu ghi chép và sự nhất quán chưa cao. Vì vậy, việc xác định thời điểm ra đời của danh xưng Thanh Hóa, gắn với sự phát triển của mảnh đất này trong suốt chiều dài lịch sử là việc làm cần thiết.

Thanh Hóa trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam vốn có nhiều tên gọi khác nhau qua từng thời kỳ, như Cửu Chân bộ thời Hùng Vương; Tượng quận thời Tần; Cửu Chân quận thời Hán; thời Ngô được chia làm hai quận: Cửu Chân và Cửu Đức; đến đời Lương Vũ Đế (502-549), vùng phía bắc quận Cửu Chân được tách ra, lập làm Ái châu. Thời Tùy (589-617), Ái châu lại lệ vào quận Cửu Chân. Đến nhà Đường (618-907) thì tách ra làm hai quận Ái Châu và quận Cửu Chân. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lý Thái Tổ đổi 10 đạo trong cả nước làm 24 lộ, châu Hoan (Nghệ An nay) và châu Ái (Thanh Hóa nay) làm trại ...

Việc nghiên cứu xác định dấu mốc quan trọng xuất hiện thời điểm ra đời danh xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc trung ương được đặt ra từ lâu nhưng gặp nhiều khó khăn do nguồn tư liệu quá ít, song với sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo tỉnh, tích cực tham mưu của các cơ quan chức năng, với trách nhiệm cao và tấm lòng yêu mến vùng đất, con người Thanh Hóa, nhiều năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh đã dành nhiều thời gian, công sức và tâm huyết để nghiên cứu, luận giải nhiều dấu mốc về tên gọi “Danh xưng Thanh Hóa” và “Danh xưng Thanh Hóa xuất hiện từ khi nào. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu Danh xưng - tên gọi Thanh Hóa bước đầu đã thu được những tư liệu lịch sử và công trình khoa học đề cập; một số cuộc Hội thảo khoa học “Thanh Hoá đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương” được tổ chức song chưa có kết quả khả quan, tin cậy.

Để có những cứ liệu xác đáng về thời điểm xuất hiện danh xưng Thanh Hóa với tư cách là một đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, ngày 23-5-2017 được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học, Ban Tuyên giáo - Tỉnh ủy Thanh Hóa phối hợp tổ chức hội thảo khoa học “Danh xưng Thanh Hóa có từ bao giờ và những cứ liệu lịch sử” với sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu hàng đầu trong cả nước.

Có 23 báo cáo tham luận của các nhà khoa học đã được trình bày với những dẫn liệu cho rằng phủ Thanh Hóa xuất hiện năm 1111 được ghi chép thống nhất ở các sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, thế nhưng năm 1111, phủ Thanh Hóa đã có trước đó nên không phải là năm Danh xưng Thanh Hóa xuất hiện sớm nhất. Bia Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7, tức năm 1126, ghi: “Đầu niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084) Thái úy Lý Thường Kiệt được phong làm em nuôi vua, trông nom việc quân các châu của quận Cửu Chân, Ái châu thuộc trấn Thanh Hóa). Do vậy, không thể căn cứ vào câu trích trên để cho rằng trấn Thanh Hóa xuất hiện năm 1076. Khi Thái úy Lý Thường Kiệt mất vào mùa hạ, tháng 6 năm Ất Dậu (1105), Đại Việt sử ký toàn thư trong đoạn tóm lược quê hương và công lao của Thái úy, có câu: “Thánh Tông phong chức Thái Bảo, trao cho tiết việt để đi kinh lý thăm hỏi lại dân ở Thanh Hóa, Nghệ An (Q. 3-14b, bản dịch 1993, T.1, tr. 285)”. Căn cứ vào câu này có người cho rằng danh xưng Thanh Hóa đã xuất hiện trong thời vua Lê Thánh Tông (1054-1072), chậm nhất là năm 1072. Đại Việt sử ký toàn thư chép khi Lý Thường Kiệt mất tức năm 1105 thì lúc đó danh xưng Nghệ An đã từng xuất hiện, vì vậy niên đại này không có cơ sở. Năm 1082 được ghi trên văn bia thời Lý tìm thấy trên đất Thanh Hóa. Văn bia An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký, dựng năm 1100. Văn bia có đoạn: “Chí Nhâm Tuất chi tuế, hoàng đế đặc gia Thanh Hóa nhất quân, tứ công phong ấp. Quần mục hướng phong, vạn dân mộ đức” (Đến năm Nhâm Tuất (1782) hoàng đế đặc biệt ban Thanh Hóa một quân, cho ông Thái úy Lý Thường Kiệt làm phong ấp. Các châu mục đều mộ phong thanh, muôn dân đều mến đức). Theo câu văn, đến năm Nhâm Tuất (1082) đã có danh xưng Thanh Hóa, có nghĩa là danh xưng Thanh Hóa không phải xuất hiện vào năm Nhâm Tuất-1082 mà phải từ trước đó. Điều đó có thể hiểu là tên Thanh Hóa có trước năm 1082. Những văn bia này là tư liệu gốc có giá trị, nhưng rất tiếc là các tác giả chưa xác định được năm nào cụ thể, mà mới chỉ dựa trên cơ sở dự tính, suy luận.

Tại Hội thảo, phần lớn các ý kiến tập trung vào niên đại: năm 1029. Năm 1029 là căn cứ vào ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Căn cứ vào bộ chính sử quan trọng thứ hai của lịch sử Việt Nam (sau Toàn thư) là sách Cương mục thì địa danh hành chính Thanh Hóa xuất hiện vào năm Thiên Thành thứ 2 triều Lý Thái Tông (1029). Cụ thể, tại tờ 20, quyển 21 sách Cương mục có đoạn chép về Thanh Hóa: “ Xưa, thời Hùng Vương là quận Cửu Chân, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán là quận Cửu Chân, đời Ngô - Tấn - Tống cũng theo đó là Cửu Chân.Đời Lương Vũ đế đổi Cửu Chân làm Ái Châu, đời Tùy trở lại tên gọi là quận Cửu Chân. Đời Đường thì phân tách và bố trí thành hai quận Ái Châu và Cửu Chân. Triều Đinh, Lê gọi là Ái Châu. Triều Lý đổi là trại. Năm Thiên Thành thứ hai (1029) đổi làm Thanh Hoá phủ)”. Với các cứ liệu hiện có, và được ghi chép cụ thể ở Cương mục, thời điểm bắt đầu tên gọi tên gọi Thanh Hóa với tư cách là một đơn vị hành chính phủ Thanh Hóa xuất hiện vào năm 1029, năm Thiên Thành thứ 2 (1029) đời vua Lý Thái Tông.

Năm 1029 là năm xuất hiện sớm nhất của Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền Trung ương thuộc quốc gia Đại Việt, toàn bộ không gian lãnh thổ và địa giới phủ Thanh Hóa thời bấy giờ về cơ bản ổn định như ngày nay. Đây chính là kết quả của quá trình nghiên cứu âm thầm, trao đi đổi lại, tranh luận của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lịch sử trong suốt một thời gian dài để đi đến thống nhất cao. Quan điểm chọn mốc 1029 là năm xuất hiện danh xưng Thanh Hóa đã nhận được sự đồng thuận của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện sử học và các nhà khoa học, đáp ứng lòng mong đợi của cán bộ và nhân dân tỉnh nhà. Mốc lịch sử này cũng tương đồng với tỉnh Nghệ An là địa phương có đặc điểm và tiến trình phát triển tương đương với Thanh Hóa dưới vương triều Lý.

Việc xác định năm 1029 thời điểm ra đời của danh xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc trung ương càng khẳng định thêm bề dày lịch sử và những giá trị truyền thống quý báu của vùng đất Xứ Thanh - địa linh nhân kiệt trong diễn trình của lịch sử dân tộc. Mới đây, trên cơ sở các luận cứ khoa học của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa ở các cơ quan trung ương và ở tỉnh, Thường trực Tỉnh ủy Thanh Hóa đã thống nhất với đề xuất chọn ngày 8 tháng 5 năm 2019 là thời điểm chính tổ chức kỷ niệm 990 năm Danh xưng Thanh Hóa (1029 – 2019). Đây là dấu mốc, sự kiện quan trọng để Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc trong tỉnh ôn lại truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc, nhận thức đầy đủ, sâu sắc về truyền thống lịch sử lâu đời đối với quê hương. Thông qua các hoạt động kỷ niệm này, hướng đến làm rõ ý nghĩa lịch sử của quá trình hình thành và phát triển địa danh Thanh Hóa, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của tỉnh từ khi hình thành đến nay. Đây cũng là dịp thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” đối với các thế hệ cha ông đã có công tạo dựng, gìn giữ, bảo vệ quê hương tiếp tục khẳng định và tôn vinh các giá trị lịch sử, truyền thống cách mạng của miền đất “địa linh, nhân kiệt”. Kỷ niệm 990 năm Danh xưng Thanh Hóa sẽ tạo thêm sức mạnh mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh hăng hái học tập, công tác, đồng lòng, chung tay, góp sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020, xây dựng tỉnh Thanh Hóa phát triển nhanh, bền vững, ngày càng thịnh vượng, văn minh.

* Trong thời gian tới, để giữ gìn và phát huy truyền thống lịch sử hào hùng trong việc xây dựng Thanh Hóa trở thành “Tỉnh kiểu mẫu” như Bác Hồ hằng mong muốn, Thanh Hóa cần phải:

Để tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp của lịch sử dân tộc và niềm tự hào về vùng đất “địa linh nhân kiệt”, quê hương của “Tam vương, nhị chúa”, của văn hiến và khoa bảng, bằng việc vận dụng và ban hành những cơ chế, chính sách phù hợp, sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã đoàn kết một lòng, nỗ lực phấn đấu, năng động, sáng tạo, phát huy tốt những tiềm năng, lợi thế, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. 

Trên cơ sở đó, tỉnh Thanh Hóa xây dựng chương trình trọng điểm, đó là tổ chức thực hiện quyết liệt, có hiệu quả 5 chương trình trọng tâm, 4 khâu đột phá và các nghị quyết, kết luận, cơ chế, chính sách đã ban hành, rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu cho phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 

Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với thực hiện có hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, thực hiện có hiệu quả Kết luận số 46 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 02 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trên địa bàn tỉnh. 

Quan tâm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất phát huy tối đa năng lực hiện có, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển ngành dịch vụ, trong đó tập trung phát triển nhanh các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. 

Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tiếp tục giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh; chủ động nắm chắc tình hình cơ sở, nhất là tuyến biên giới, trên biển và các địa bàn trọng điểm để kịp thời xử lý các tình huống phát sinh, không để bị động, bất ngờ. 

Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy chính quyền từ tỉnh đến cơ sở. 

Khắc sâu lời dạy của Bác, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã khắc phục khó khăn, gian khổ, đẩy mạnh lao động sản xuất, tích cực tham gia kháng chiến, kiến quốc, vừa kiên cường chiến đấu bảo vệ quê hương, vừa tích cực đóng góp sức người, sức của chi viện cho chiến trường, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước…

Là địa phương có điều kiện tự nhiên phong phú, nằm ở vị trí quan trọng, nơi cửa ngõ giao lưu giữa các tỉnh Bắc Trung bộ và Bắc bộ, Thanh Hóa cần cần huy động các nguồn lực để phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm các công trình hạ tầng quan trọng, có tính then chốt về giao thông, thủy lợi, điện. 

Thanh Hóa cần tiếp tục chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, hiện đại trên cơ sở ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất; quan tâm thu hút các dự án đầu tư có tính kết nối liên vùng nhằm tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội; liên kết hợp tác phát triển với các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và Bắc Trung bộ, phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của từng tỉnh, thành phố và của toàn vùng. 

Đi cùng với đó, Thanh Hóa phải chú trọng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch du lịch; gắn phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ với phát triển du lịch để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Muốn làm tốt các nhiệm vụ này, tỉnh Thanh Hóa cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng giáo dục và dạy nghề; quan tâm đầu tư cho khoa học - công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 

Cùng với đó phải chú trọng đẩy mạnh cải cách hành chính, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu chính đáng của người dân và doanh nghiệp nhằm xây dựng bộ máy chính quyền hiệu lực, hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. 

         Hoằng Hóa, ngày 15 tháng 02 năm 2019

XÁC NHẬN CỦA CHI BỘ                    NGƯỜI DỰ THI

 

 

            Nguyễn Thị Hòe                              Nguyễn Thị Thủy

 

 

 

Truy cập
Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
521084